🌟 Chương Trình Life Design: Thiết Kế Cuộc Đời Đích Thực Qua Ba Chiều Kích của Hiện Hữu (Umwelt, Mitwelt, Eigenwelt)

Rollo May’s book, Psychology and the Human Dilemma

  • tình thế tiến thoái lưỡng nan của con người, con người đối diện với những nghịch lý trong cuộc đời
  • sự mất mát ý nghĩa ( absence of crisís and meaning): nhu cầu cơ bản ( nhu cầu tồn tại ăn uống ngủ nghỉ, nhu cầu an toàn có nhà có điều kiện vật chất cơ bản ) , con người đối diện với với. những câu hỏi sâu sắc hơn về sự tồn tại ( purpose of existence)
    • con người là sinh vật sống duy nhất ý thức có khả năng tự phản chiếu chính mình , nghĩ về những điều mình đang nghĩ ( self awareness)
    • năng lực này là khả năng khiến con người đột phá so so với toàn bộ sinh vật khác trên trát đất, tạo nên chủng loại người chiếm lĩnh thống trị trái đất.
    • nghịch lý cũng chính sức mạnh tự suy nghĩ về chính mình, con người đặt những câu hỏi về sự tồn tại của chính mình
  • Lưỡng nan chủ thể và khác thể ( subject- object dilema)
    • con người là chủ thể chủ quan trong mọi kinh nghiệm của bản thân, ta biết về chính mình, ta biết về trải nghiệm cảm nhận cảm giác suy nghĩ, tư tưởng của chính mình
    • nhưng con người cũng đang bị nhốt vào một không gian hữu hạn, chịu ảnh hưởng, chi phối bởi tự nhiên, các quy luật tự nhiên, sinh học và xã hội ( external forces)
    • Nếu quá tập trung vào chủ thể ( subjectivity) : rơi vào chủ nghĩa duy ngã ( solipsism), chỉ quan tâm đến nội quan của chính mình, không thể xây dựng các chức năng cơ bản hành động hiệu quả trong thế giới thực, mất kết nối với thực tees
    • Nếu quá tập trung vào khách thể ( objectivity) : bỏ qua đi thực tế của chính mình những gì cảm xúc, suy nghĩ suy tư của bản thân cũng đang là thật.

  • 🕊️ Lưỡng Nan Về Tự Do & Tất Định (The Dilemma of Freedom & Determinism)
    • cảm nhận về tự do, về cảm nhận chủ quan con người có trải nghiệm nội tại mạnh mẽ về tự do lựa hconj ( freedom of choice) khả năn tự định hướng cuộc đời
    • thực tại tất định ( determinism of reality): con người bị chi phối bởi các yếu tối ngoài tầm kiểm soát: di truyền, môi trường, hoàn cảnh xã hội, quy luật tự nhiên
    • làm sao dung hoà giữa cảm giác tự do nộị tại với nhận thức về các yếu tối tất định bên ngoài
    • Giải pháp (Gợi ý): Tự do không nằm ở việc phủ nhận các yếu tố quyết định, mà nằm ở cách chúng ta ý thức và phản ứng với chúng. Tự do nằm ở khả năng tạo ra ý nghĩa và lựa chọn thái độ ngay cả trong những hoàn cảnh bị giới hạn.

💡 Vai Trò Của Ý Thức & Sự Tỉnh Thức (The Role of Consciousness & Awareness)

  • Ý thức là Chìa khóa: Chính ý thức (consciousness) và tự nhận thức (self-awareness) là năng lực độc đáo của con người cho phép chúng ta nhận biết và đối mặt với tình thế lưỡng nan của mình.
  • Vượt lên Sự Phân cực: Ý thức cho phép chúng ta vượt lên trên sự phân cực cứng nhắc giữa chủ thể và khách thể. Chúng ta có thể ý thức được rằng mình vừa là người trải nghiệm (chủ thể) vừa là một phần của thế giới bị quy định (khách thể).
  • Khả năng Tạo ra Ý nghĩa: Thông qua ý thức, chúng ta có thể diễn giải (interpret) các trải nghiệm của mình, gán cho chúng ý nghĩa (assign meaning), và lựa chọn cách phản ứng. Đây là nơi tự do thực sự phát huy tác dụng.
  • Tầm quan trọng của Sự Tỉnh thức (Awareness): Càng tỉnh thức về tình thế lưỡng nan của mình, về sự tương tác giữa chủ thể và khách thể, tự do và tất định, chúng ta càng có khả năng sống một cách chân thực (authentic) và có trách nhiệm (responsible) hơn.


Rollo May: The Discovery of Being

Cách mạng công nghiệp, tập trung vào tư duy phân tích thành các yếu tối riêng việt, mổ xẻ thành những yếu tối nhỏ nhất –> con người cũng bị mổ xẻ thành nhiều phần riêng biệt

  • ưu tiên tập trung và tư duy lý tính, tư duy phân tích
  • tạo ra sự phân mảnh ( compartmentalizations) và mất cân bằng giữa lý tính và cảm xúc , hạ thấp vai trò của cảm xúc ( demotions passions)
  • Chủ nghĩa hiện sinh cố gắng:
    1. Tái cân bằng giữa lý trí, cảm xúc và ý chí để chúng đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống mà không bị lệch lạc (caddywhompus – từ địa phương miền Nam Hoa Kỳ, nghĩa là xiên vẹo, không cân đối).
    2. Tái khẳng định (reassert) tính ưu việt của nhân tính (humanity) và trải nghiệm con người (experience as human beings).
    3. Tái tập trung sự chú ý vào việc khám phá sự tồn tại (exploring being) để chúng ta thực sự là những con người (human beings).
  • Ba sự kháng cự (three resistances) chính:
    • Bối cảnh tâm lý học Hoa Kỳ lúc bấy giờ bị chi phối bởi hai lực lượng lớn:
      1. Chủ nghĩa Hành vi (Behaviorism): Cổ điển, thuần túy.
      2. Phân tâm học (Psychoanalysis): Freud và những người theo sau (các nhà tư tưởng động thái tâm lý – psychodynamic thinkers).
    • Do đó, có nhiều sự kháng cự đối với một phong trào như tâm lý học hiện sinh.
  • Rào cản thứ nhất:
    • Giả định rằng tất cả các khám phá lớn trong tâm lý học đã được thực hiện.
    • Quan điểm: Không cần phải tìm hiểu về bản chất của sự tồn tại (existence) hay hiện hữu (being) để cải tổ nền tảng tâm lý học một cách căn bản.
    • Nếu không biết existence là gì, cứ tra từ điển.
    • Tâm lý học đã có mô hình cơ bản (fundamental paradigm), chỉ cần triển khai chi tiết.
    • Không muốn đặt ra những câu hỏi căn bản, cấp tiến về bản chất của hiện hữu.
  • Rào cản thứ hai:
    • Phân tích hiện sinh (existential analysis) là sự xâm phạm (encroachment) của triết học vào tâm thần học (psychiatry) hoặc tâm lý học, và không liên quan nhiều đến khoa học (science).
    • Đây là một dạng “tranh chấp lãnh địa” (turf war) học thuật.
    • Tâm lý học chủ yếu được định nghĩa là một loại khoa học (khoa học về hành vi, quá trình nhận thức).
    • Việc đưa yếu tố triết học vào bị coi là một sự xâm nhập không chính đáng (unwarranted intrusion).
    • Phản biện của chủ nghĩa hiện sinh:
      • Trong chừng mực khoa học không sẵn lòng tìm hiểu bản chất của sự tồn tại, nó đang đi ngược lại tinh thần khoa học (anti-scientific).
      • Tinh thần cốt lõi của khoa học là đặt mọi thứ dưới sự nghi vấn, không chỉ đơn thuần chấp nhận định nghĩa từ điển cho một thuật ngữ nền tảng như “sự tồn tại”.
      • Tại sao lại kháng cự việc đặt câu hỏi về bản chất của sự tồn tại, trong khi toàn bộ công trình khoa học ngầm xây dựng trên đó?
  • Rào cản thứ ba:
    • Xu hướng ở Hoa Kỳ quá chú trọng vào kỹ thuật (technique) và kết quả thực tiễn (practical results).
    • Nếu chỉ tập trung vào “làm” (doing), năng suất (productivity), và thành tựu (accomplishment), bạn sẽ không bao giờ chạm đến những tiềm năng sâu sắc hơn của sự hiện hữu con người (deeper latencies of your human birthright).
    • Những tiềm năng này liên quan đến các câu hỏi như: Cuộc sống của bạn thực sự về điều gì? Bản chất sự tồn tại của bạn là gì?
    • Nếu chỉ “làm”, bạn sẽ trở thành một con robot (robot) hiệu quả, có mối quan hệ máy móc với trải nghiệm của mình.
    • Phần sâu sắc nhất của bạn, phần kết nối với chính cuộc sống, sẽ bị bỏ qua.
    • Cần phải nói “không” với việc chỉ năng suất mọi lúc, phải tạo không gian cho cuộc sống, cho nhịp đập trái tim, cho âm nhạc và thơ ca của sự tồn tại con người.
  • Định nghĩa của Rollo May (trang 49):
    • “Chủ nghĩa hiện sinh, nói tóm lại, là nỗ lực hiểu con người bằng cách cắt xuống bên dưới sự chia cắt giữa chủ thể (subject) và khách thể (object), vốn đã gây khó khăn cho tư tưởng và khoa học phương Tây kể từ ngay sau thời Phục Hưng.”
    • Thời kỳ Khai sáng sớm (early Enlightenment) nhấn mạnh sự phân biệt giữa chủ quan (subjectivity) và khách quan (objectivity) (ví dụ: René Descartes, triết gia Pháp, 1596-1650).
  • Chủ nghĩa Hiện sinh như một thái độ:
    • Chấp nhận con người luôn trong quá trình “trở thành” (always becoming), điều này có nghĩa là tiềm ẩn khả năng rơi vào khủng hoảng (crisis).
  • Khủng hoảng và Cơ hội:
    • Từ “khủng hoảng” (crisis) trong chữ Hán tượng hình cũng có thể bao hàm ý nghĩa “cơ hội” (opportunity).
  • Trích dẫn Blaise Pascal (nhà tư tưởng thời Khai sáng, được Rollo May trích dẫn ở trang 57):
    • “Khi tôi xem xét quãng đời ngắn ngủi của mình, bị nuốt chửng trong vĩnh cửu phía trước và phía sau nó, không gian nhỏ bé mà tôi chiếm giữ, hoặc thậm chí nhìn thấy, bị nhấn chìm trong sự bao la vô hạn của những không gian mà tôi không biết và chúng cũng không biết tôi, tôi sợ hãi và tự hỏi khi thấy mình ở đây chứ không phải ở đó, vì không có lý do gì tôi nên ở đây hơn là ở đó, bây giờ hơn là lúc đó.”
    • Đây là một diễn đạt tuyệt đẹp, mang tính “tiền hiện sinh” (pre-existential rendering) về cảm thức hiện sinh (existential sensibility).

Chủ nghĩa hiện sinh

  • nhìn con người và sự sống của con người trong sự tổng thể ( holism) bao gồm các yếu tố liên kết kết nối chặt chẽ cảm xúc, lý trí, tinh thần.
  • đi tìm là cái căn bản cốt lõi nhất, sự tồn tại đang có của con người và ý nghĩa của nó. ( tập trung vào being nhiều hơn thay vì chỉ tập trung vào doing).
  • khi tập trung vào being , sẽ nhìn ra những khía cạnh mang tính người ( human-beings) khác biệt, siêu việt hơn so với các những vai trò cơ học nhưng cỗ máy ( human like machines) trong các vai trò hàng ngày.
  • tiến trình trở trình ( on becoming humans) nhìn nhận con người để trở thành con người thực sự: tự do, siêu việt, phát huy hết tiềm năng là tiến trình liên tục, cả đời, liên tục tiến lên, trong tiến trình becoming ấy, con người thường xuyên đối diện với những khủng hoảng ( crísis) vừa cả thách thức vưà là cơ hội cho con người trở nên hiểu rõ về bản thân mình.

Câu hỏi nền tảng : Hiện hữu là gì??

  • Tính toàn thể (Holism):
    • Ví dụ cụ thể: Khái niệm Dasein (hiện hữu tại đây) của Martin Heidegger.
    • Dasein (tiếng Đức: da – ở đó, sein – là/hiện hữu): sự tương tác hai chiều, liên tục, qua lại giữa khía cạnh chủ quan (subjective experience) của cuộc sống và khía cạnh khách quan, cụ thể (objective, concrete side) của cuộc sống.
    • Hay nói cách khác, mối quan hệ tương hỗ giữa “chúng ta là gì” và “thế giới là gì”; cả hai luôn ảnh hưởng lẫn nhau.
    • Khía cạnh chủ quan và khách quan chỉ là hai góc nhìn của cùng một hiện tượng đơn nhất (unitary phenomenon).
  • Ý tưởng mới: Chúng ta là những hiện hữu trong thế giới (beings in the world):
    • Chân lý của hiện hữu chúng ta (truth of our being), chân lý của sự tồn tại (truth of existence), chân lý của nhân tính chúng ta (truth of our humanity) luôn phụ thuộc vào góc nhìn (perspective) mà từ đó chúng ta xem xét sự việc.
    • Phụ thuộc vào vị trí cụ thể chúng ta chiếm giữ trong thế giới (về văn hóa, lịch sử, v.v.).
    • Ví dụ: Chân lý hiện ra khác nhau tùy thuộc bạn nhìn từ thế kỷ 21, thời kỳ Khai sáng sớm (early Enlightenment), hay thời La Mã cổ đại (classical Roman antiquity).
    • Chân lý mang tính phối cảnh không thể quy giản (irreducibly perspectival): Chân lý là một hàm số của góc nhìn cụ thể của bạn.
    • Chân lý luôn được khớp nối từ một điểm nhìn theo ngữ cảnh cụ thể (specific contextual point of view).
    • Chúng ta là những điểm nhìn cụ thể (particular points of view) về một thế giới được chia sẻ chung (commonly shared world): Cả hai điều này đều đúng đồng thời.

Kết luận: Chân lý về việc người nói có đang di chuyển hay không và với vận tốc nào phụ thuộc hoàn toàn vào góc nhìn (perspective), vào khung tham chiếu (frame of reference).

  • Hệ quả của tính phối cảnh:
    • Chân lý của cuộc sống luôn mở ngỏ (open-ended): Tùy thuộc vào góc nhìn của chúng ta.
    • Bạn có đủ tự do để thay đổi góc nhìn của mình (shift your perspective), thay đổi cách bạn nhìn thế giới và bản thân.
    • Chân lý của cuộc sống luôn có thể được diễn giải lại (reinterpretation) và xem xét lại (revision) khi bạn thay đổi góc nhìn.
    • Việc khớp nối một chân lý tự nó là một hành động hiện hữu trong thế giới (act of being in the world), hành động này lại làm thay đổi góc nhìn ban đầu. (Tương tự mối quan hệ giữa tầng ý nghĩa hiện tượng – phenomenal layer of meaning và tầng ý nghĩa hiện tượng học – phenomenological layer of meaning).
    • Chân lý của sự tồn tại là vô hạn (infinite), không có một mục đích hay điểm đến cuối cùng rõ ràng (distinct and/or Telos).
      • Telos (tiếng Hy Lạp): mục tiêu, mục đích, điểm đến, lý do. (Một từ thường xuất hiện trong các văn bản hiện sinh và triết học).
  • Chân lý đòi hỏi sự diễn giải:
    • Vì chân lý mang tính phối cảnh không thể quy giản, nó đòi hỏi sự diễn giải (interpretation) liên quan đến góc nhìn của bạn.
    • Cần có một cách thừa nhận góc nhìn của chính mình (nhắc lại việc nhận diện bốn cấu trúc của phương thức thông diễn học – four structures of your hermeneutic way of interpreting things).
  • Thông diễn học (Hermeneutics): Chân lý của cuộc sống, chân lý của sự tồn tại là vấn đề của việc diễn giải từ điểm nhìn của chúng ta về sự vật.

Chân lý tuỳ thuộc góc nhìn diễn gỉai đặt trong một bối cảnh lịch sử cụ thể, Chúng ta là những điểm nhìn cụ thể (particular points of view) về một thế giới được chia sẻ chung (commonly shared world): Cả hai điều này đều đúng đồng thời. Vì vậy ta cần học cách diễn giải từ góc nhìn của ta về sự vật, khi đó ta tìm hiểu về thông diễn học.

“Trải Nghiệm Tôi Là” (The I AM Experience) – Chìa Khóa Cho Sự Thay Đổi Sâu Sắc

  • Bản chất: Đây là trải nghiệm về thực tại thô sơ (raw reality), thực tại nền tảng (fundamental reality) của chính sự tồn tại của bạn.
  • Khó giải thích bằng lời: Giống như nhạc jazz theo lời Louis Armstrong: “Nếu bạn phải hỏi câu đó, bạn sẽ không hiểu câu trả lời.”
  • Mục tiêu không phải là giải thích, mà là giúp bạn nhớ lại (remembering) khi bạn đã từng trải qua điều gì đó tương tự, hoặc thậm chí có được trải nghiệm đó.

——

  • Ví dụ về “Trải Nghiệm Tôi Là”:
    • Ví dụ tích cực:
      • Ngồi trên xích đu ở hiên nhà vào một ngày ấm áp, có gió nhẹ, không có gì phải làm, chỉ tận hưởng.
      • Những lo lắng thường ngày tan biến.
      • Bạn nhận ra vẻ đẹp của ánh nắng, lá cây lay động trong gió – những điều bình thường bạn không để ý.
      • Bạn nhận ra mình đang sống (you’re alive) trong vũ trụ này, trong trải nghiệm hoang dại, đáng sợ và đôi khi kỳ diệu này.
      • Bạn có thể sững sờ: “Chết tiệt, mình tồn tại!” (Damn, I exist!).
    • Ví dụ tiêu cực/thử thách:
      • Lo âu tột độ (extreme anxiety) hoặc một cơn hoảng loạn (panic attack) cũng có thể là một dạng “trải nghiệm Tôi Là”.
      • Khi trải qua những điều này, một điều bạn không thể nghi ngờ là sự thật rằng bạn đang sống. Nó có thể là cách nhận ra phẩm chất thô ráp và sắc bén của sự tồn tại của bạn.
      • Sự tồn tại không phải lúc nào cũng dễ chịu.
    • Các dạng khác:
      • Có thể mang hình thức sợ hãi (fearful forms), trầm cảm (depressive forms), hoặc trung tính về mặt cảm xúc (emotionally neutral forms).
      • Thiền định (meditation) là một nơi tuyệt vời để nhận ra thực tại của sự tồn tại.

Mục Tiêu Của Trị Liệu Hiện Sinh: Hướng Tới Sự Tồn Tại Đích Thực (Authentic Existence)

  • Định nghĩa Authentic Existence:
    • Theo Heidegger, authenticity (tính đích thực) liên quan đến việc sống hướng tới tiềm năng hiện hữu cao nhất của chính mình (living toward our ownmost potentiality for being).
    • Diễn giải: Mỗi người chúng ta có một phạm vi rộng lớn các khả năng (broad range of possibilities) mà chúng ta có thể sống hướng tới.
      • Chúng ta thường không thích nghĩ về sự rộng lớn này vì nó khiến ta cảm thấy bất an (queasy and uneasy) khi xem xét những gì mình có thể làm mà chưa làm.
    • Trong phạm vi rộng lớn đó, có một điều gì đó là “cao nhất” (ownmost) – tiềm năng sâu sắc nhất, mạnh mẽ nhất, rạng rỡ nhất mà bạn có thể trở thành trong cuộc đời này.
    • Đó là những khả năng mà nếu bạn hướng tới và bắt đầu hiện thực hóa (actualize), sẽ dẫn đến một cuộc sống thú vị, mạnh mẽ, thi vị, rực rỡ nhất mà bạn có thể sống, với con người thật của bạn.
    • Hướng tới việc trở thành tất cả những gì chúng ta có thể là (being all that we could be). Điều này thay đổi rất nhiều tùy theo mỗi người, do cấu trúc cá nhân (personal constitution) khác nhau (tài năng, khả năng, mong muốn, v.v.).
  • Vai trò trong trị liệu:
    • Trị liệu hiện sinh không chỉ là có một sự tỏ ngộ kiểu “Tôi Là” (I AM type of epiphany), mà còn là nhận ra chúng ta là ai, là gì, và có thể là ai, là gì trong cuộc đời này, rồi bắt đầu kết nối hai điều đó.
    • Bắt đầu tiến vào những khả năng sâu sắc nhất của chúng ta.
  • Sự tồn tại đích thực và Định mệnh (Destiny):
    • Hướng tới sự tồn tại đích thực giống như thoáng thấy và sống theo một định mệnh (glimpsing and living out a destiny).
    • Ý nghĩa thực sự của định mệnh (theo Martin Buber):
      • Định mệnh chọn bạn (destiny chooses you), nhưng bạn cũng phải chọn nó (you also have to choose it) để biến nó thành hiện thực.
      • Nếu định mệnh chọn bạn mà bạn không chọn lại, bạn sẽ không hiện thực hóa được định mệnh của mình. Cả hai đều cần thiết.

Sự Tồn Tại Phi Đích Thực (Inauthentic Existence) và Tội Lỗi Hiện Sinh (Existential Guilt)

  • Thực trạng phổ biến: “Trải nghiệm Tôi Là” cũng có thể cho chúng ta thấy (thường là nhanh chóng) rằng chúng ta thường xuyên không sống đích thực.
    • Hầu hết thời gian, chúng ta tuân theo (conforming) những gì người khác làm. Chúng ta nhìn xung quanh, không biết phải làm gì với cuộc đời mình, nên bắt chước người khác về cách suy nghĩ, cảm nhận, hành xử (ví dụ: đi học đại học).
    • Chúng ta không nhất thiết nhận ra và sống hướng tới sự tồn tại đích thực.
    • Thay vào đó, chúng ta rơi vào sự tồn tại phi đích thực (inauthentic existence). Chúng ta bắt chước nhau (monkey see monkey do).
    • Những gì người khác cho là có giá trị, chúng ta cũng có xu hướng cho là có giá trị. Những gì người khác phấn đấu, chúng ta cũng nghĩ là đáng để phấn đấu (ví dụ: mua xe đắt tiền).
    • Phần lớn điều này dẫn đến sự phi đích thực (inauthenticity).
  • Theo ngôn ngữ của Heidegger: Chúng ta đơn giản đi theo “đám đông vô danh” (anonymous herdDas Man trong tiếng Đức).
  • “Trải Nghiệm Tôi Là” và nhận thức về sự phi đích thực:
    • Khoảnh khắc “Tôi Là” có thể cho bạn thấy bạn thường xuyên đánh mất những tầm mức và khả năng sâu sắc hơn của sự tồn tại của mình như thế nào.
  • Tội Lỗi Hiện Sinh (Existential Guilt):
    • Điều này có thể gây ra cảm giác tội lỗi hiện sinh.
    • Định nghĩa: Một loại cảm giác mắc nợ (indebtedness) đối với những khả năng sâu sắc hơn của bạn trong cuộc đời này mà phần lớn bạn không sống theo.
    • Điều này đúng với mọi người, kể cả Heidegger.
    • Vì mọi người đều có một mức độ tội lỗi hiện sinh nào đó (mỗi người đều thiếu sót theo cách này hay cách khác), tội lỗi hiện sinh không chỉ là một cảm giác đơn thuần.
    • Nó là một phạm trù bản thể học (ontological category).
      • Phạm trù bản thể học: Một cái gì đó nền tảng đối với cấu trúc của sự tồn tại của chúng ta.
      • Tội lỗi hiện sinh là một phần của cuộc sống. Mỗi chúng ta sinh ra với một phạm vi khả năng tương đối hẹp là “cao nhất” của mình, nhưng phần lớn chúng ta lại bỏ lỡ mục tiêu, bắt chước nhau, tuân theo người khác, không sống cuộc đời của chính mình.
      • Đây là một đặc điểm cơ bản của Dasein (hiện hữu tại đây).


Bình luận

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *